65 năm kết nối kiều bào với đất nước: Nhìn lại hôm qua, hướng đến ngày mai
Là Trưởng Ban Việt kiều Trung ương (VKTW) cuối cùng và là Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN), tôi ghi lại trong bài viết này những sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn chuyển tiếp từ Ban VKTW sang Ủy ban về NVNONN để từ đó cùng nhìn về tương lai.
Tháng 7/1992, tôi trúng cử đại biểu Quốc hội khóa IX, nhiệm kỳ 1992-1997. Tháng 10/1992, sau khi Chính phủ mới được thành lập, tôi nhận được Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, thôi giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước để đảm nhiệm công tác Trưởng Ban VKTW trực thuộc Chính phủ.
GS.TS Nguyễn Ngọc Trân.
Đất nước lúc đó đang bị bao vây cấm vận. Sự thay đổi thể chế chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu đảo lộn trao đổi thương mại của Việt Nam. Nhiều bài toán kinh tế phải có hướng giải quyết khác chỉ trong một thời gian ngắn. Đường lối Đổi mới thông qua tại Đại hội VI của Đảng bắt đầu vực dậy sinh lực và tiềm năng của đất nước. Số người ra đi bất hợp pháp có giảm, thay vào đó là những đợt xuất cảnh theo Chương trình ra đi có trật tự và theo diện đoàn tụ gia đình. Cộng đồng người Việt sống ở nước ngoài đông và đa dạng hơn thời kỳ trước 1975. Công tác vận động kiều bào trong quyết sách Đổi MớiNhận nhiệm vụ trong bối cảnh đó, tôi ý thức trách nhiệm nặng nề mà Đảng và Nhà nước giao cho, và nhận thức rằng công tác kiều bào phải thể hiện đường lối Đổi mới chung. Một tháng sau, sau khi bàn bạc trong tập thể Ban VKTW, tôi đến báo cáo với Thủ tướng dự kiến triển khai nhiệm vụ được giao. Thủ tướng lắng nghe, hỏi thêm và nhấn mạnh phải sớm đến với kiều bào, một mặt, trình bày thật rõ ràng tình hình thực tế đất nước và đường lối đổi mới để kiều bào thấy cái thế của đất nước; mặt khác, lắng nghe ý kiến, kể cả những ý kiến khó nghe nhất và nguyện vọng mà kiều bào đề đạt để xây dựng chính sách. Điểm xuất phát là phải xem kiều bào, ra đi vì bất cứ lý do gì, vào thời điểm nào, đều là con dân của Tổ quốc Việt Nam; phải tin rằng mọi người Việt Nam đều có lòng yêu nước, những thành tựu của đường lối Đổi mới sẽ thổi bùng lên lòng yêu nước đó, gắn kết bà con với quê hương. Thủ tướng căn dặn, đất nước còn nghèo, chậm phát triển, phải quý trọng chất xám, nhất là của những người có thực tài muốn góp phần xây dựng đất nước, trong khoa học công nghệ cũng như trong văn hóa nghệ thuật. Thủ tướng nhắc phải chung thủy với kiều bào ở Thái Lan, Lào và Campuchia, những cộng đồng đã hy sinh không kể xiết trong suốt hai cuộc kháng chiến. Từ những ý kiến chỉ đạo trên, Ban VKTW, phối hợp với Bộ Ngoại giao và Văn phòng Chính phủ, tổ chức Hội nghị Việt kiều Xuân Quý Dậu 1993 trong hai ngày 8 và 9/2/1993. Thủ tướng và nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã tham dự hội nghị và trực tiếp nghe ý kiến của kiều bào. Sự quan tâm của Thủ tướng đến ý kiến của kiều bào thể hiện qua việc chưa đầy ba tuần sau Hội nghị, Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng về các việc cần triển khai: nghiên cứu việc Việt kiều mong muốn mang hai quốc tịch để thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống tại nước sở tại (giao cho Bộ Tư pháp); về những biện pháp khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước (Ủy ban nhà nước về hợp tác và đầu tư trình); về nhập xuất cảnh, cư trú và đi lại của kiều bào (Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ và Ban VKTW có văn bản hướng dẫn); đồng ý về nguyên tắc việc thành lập ngân hàng Việt kiều ở Việt Nam (Ban VKTW và Ngân hàng nhà nước nghiên cứu ý kiến đề xuất của Việt kiều tại hội nghị, xây dựng phương án chi tiết trình Thủ tướng Chính phủ); đồng ý về nguyên tắc việc thành lập Trung tâm đào tạo, chuyển giao công nghệ Việt kiều cho người đã trưởng thành (Ban VKTW và các ngành có liên quan làm việc với các Việt kiều đã đề xuất tại hội nghị, xây dựng phương án chi tiết trình Thủ tướng Chính phủ); đồng ý cho Ban VKTW sử dụng cơ chế tư vấn của trí thức Việt kiều giúp Chính phủ trong một số lĩnh vực công tác (Ban VKTW tham khảo ý kiến của các Bộ ngành liên quan, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và quy chế hoạt động của các ban tư vấn trình Thủ tướng xem xét, quyết định).
Nhìn lại, nhiều nội dung đã được thực hiện, có việc nhanh sau đó, có việc nhiều năm sau, và một số nội dung chưa thực hiện được. Nhiều giáo sư trong và ngoài nước đề xuất sớm tổ chức một hội nghị tư vấn với nội dung giáo dục đại học Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI. Ban VKTW và Bộ Giáo dục và Đào tạo tích cực phối hợp chuẩn bị và đã trình đề án hội nghị tư vấn này với Giáo sư Nguyễn Đình Tứ, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, rồi sau đó với Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Nhận được sự đồng ý của hai đồng chí, Hội nghị tư vấn về giáo dục đại học Việt Nam trước thách thức của thế kỷ XXI đã được tổ chức Xuân Giáp Tuất, tháng 2 năm 1994. Hơn 110 chuyên gia trong và ngoài nước, trong đó 43 người từ 11 nước bên ngoài về, đã làm việc trong suốt ba ngày liền, thảo luận sâu và không hề cảm thấy một sự ngăn cách nào, trên 7 chuyên đề: (1) Hệ thống giáo dục đại học về cơ cấu trình độ và cơ cấu loại trường; (2) Hệ thống giáo dục đại học phân bố trên lãnh thổ; (3) Vấn đề quản lý hệ thống đại học; (4) Những biện pháp để nâng cao chất lượng đào tạo đại học; (5) Những biện pháp để gắn giảng dạy và nghiên cứu khoa học với phát triển kinh tế xã hội; (6) Những biện pháp để tăng cường hợp tác quốc tế và huy động chuyên gia người Việt ở nước ngoài góp phần xây dựng giáo dục đại học Việt Nam; (7) Trong điều kiện GDP của Việt Nam còn thấp, có những biện pháp gì để có nguồn tài chính cần thiết cho giáo dục đại học. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, trong số các công việc cần triển khai ngay, Ban VKTW, dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đã phối hợp với các Bộ ngành liên quan, chuẩn bị trình Bộ Chính trị Dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách và công tác đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã được ban hành ngày 29/11/1993. Văn kiện khẳng định “NVNONN là bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”; “Tinh thần người Việt Nam yêu nước Việt Nam phải vượt lên trên những khác biệt về tôn giáo, dân tộc, hoàn cảnh kinh tế và cả sự khác nhau về chính kiến”. Chính sách và công tác NVNONN phải đáp ứng những yêu cầu chính là bảo vệ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài; nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết tương trợ, đùm bọc lẫn nhau, (…), cùng nhau gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc và phẩm giá con người Việt Nam, tôn trọng luật pháp nước sở tại, hòa nhập với xã hội và nhân dân nước sở tại; giúp kiều bào hiểu tình hình đất nước, phát huy khả năng góp phần xây dựng quê hương, kết hợp lợi ích của mình và của đất nước. Trong các chính sách và biện pháp, văn kiện nêu rõ: ưu tiên mời chuyên gia là người Việt Nam trong các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương với bên ngoài; mời giáo sư và chuyên gia về giảng dạy ở các trường đại học, hoặc tham gia các chương trình nghiên cứu triển khai, kể cả trong lĩnh vực quản lý vĩ mô; thành lập Ủy ban về NVNONN thay Ban VKTW và kiện toàn cơ quan này. Khoảng thời gian làm việc ở Ban VKTW và sau đó ở Ủy ban về NVNONN trực thuộc Chính phủ, tôi được tham gia đoàn của Thủ tướng Chính phủ trong các chuyến thăm chính thức Australia, Pháp, Bỉ, CHLB Đức, Anh, Cuba và Campuchia. Điều này thể hiện mối quan tâm mà Thủ tướng dành cho công tác kiều bào. Mỗi chuyến công tác, mặc dù rất bận, Thủ tướng vẫn dành sự quan tâm gọi riêng tôi và những thành viên khác có liên quan để nhận xét và góp những ý kiến sâu sắc về công tác vận động cộng đồng người Việt ở địa bàn trong mối quan hệ với chính quyền nước sở tại. Lúc ở Cuba, Thủ tướng phân công tôi làm việc với các đồng chí nước bạn, trao đổi kinh nghiệm vận động kiều dân.
|