Cuba đại diện Nhóm các nước đang phát triển đánh giá kết quả này là sự thắng lợi của ngoại giao và chủ nghĩa đa phương, thắng lợi của các nước đang phát triển nhờ sự nỗ lực không mệt mỏi và đoàn kết chặt chẽ của các nước trong nhóm.
Phát biểu tại hội nghị, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, Trưởng đoàn đàm phán, khẳng định kết quả thành công ngày hôm nay thể hiện cam kết và quyết tâm mạnh mẽ của Hội nghị trong việc đạt được một văn kiện nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững các vùng biển ngoài phạm vi tài phán quốc gia.
Đại sứ đánh giá hiệp định này sẽ củng cố hơn nữa Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS) - bản Hiến pháp của đại dương, khuôn khổ pháp lý toàn diện cho mọi hoạt động trên biển; tăng cường chủ nghĩa đa phương, là một dấu mốc mới trong sự phát triển của luật pháp quốc tế và góp phần thực hiện Thập kỷ Liên hợp quốc về khoa học biển phục vụ phát triển bền vững, thực hiện Mục tiêu phát triển thứ 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn tài nguyên biển phục vụ phát triển bền vững.
Nhằm bảo đảm tôn trọng sự toàn vẹn của UNCLOS, trong quá trình thực hiện hiệp định sau này, liên quan đến quy định về việc Hội nghị các thành viên ký kết hiệp định xem xét, đề nghị phân vùng để áp dụng biện pháp bảo tồn, đại diện Việt Nam cùng một số nước nhấn mạnh cách giải thích một số điều khoản mà Hội nghị liên Chính phủ đã nhất trí, như thể hiện trong Báo cáo của Hội nghị liên Chính phủ.
Việc Liên hợp quốc thông qua Hiệp định đem lại nhiều cảm xúc, đặc biệt là đối với những người trực tiếp tham gia thương lượng, trong đó có đoàn liên ngành Việt Nam do Bộ Ngoại giao chủ trì cùng đại diện: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công an, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam..., phối hợp Phái đoàn Việt Nam tại New York, bởi đây là kết quả của một quá trình lâu dài và phức tạp, nhiều lúc cực kỳ gay gắt.
Bà Rena Lee, Chủ tịch Hội nghị liên Chính phủ, mô tả việc xây dựng hiệp định là "một công cuộc to lớn và có ý nghĩa sống còn". Nếu tính cả các hoạt động trù bị cho Hội nghị liên Chính phủ và hoạt động vận động trong Đại hội đồng Liên hợp quốc, quá trình này kéo dài gần 20 năm.
UNCLOS quy định quyền tự do hàng hải, tự do đánh cá trên biển cả ngoài vùng đặc quyền kinh tế, đồng thời quy định khoáng sản trong vùng đáy biển trên thềm lục địa của các nước, là di sản chung của nhân loại; thành lập cơ chế cấp phép, phân bổ lợi ích từ khai mỏ dưới đáy biển khơi, song chưa có cơ chế tương tự đối với nguồn gene biển.
Hiệp định về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học vùng ngoài quyền tài phán quốc gia cụ thể hóa và phát triển UNCLOS trên khía cạnh này. Đây là hiệp định thứ 3 thực thi UNCLOS, sau văn kiện về đàn cá di cư và văn kiện nhằm thực thi Phần XI của Công ước.
Hiệp định gồm: 17 chương, 76 điều, 2 phụ lục với nội dung chính xoay quanh một số vấn đề gồm: (i) Chia sẻ lợi ích nguồn gene biển; (ii) Thiết lập vùng bảo tồn biển; (iii) Đánh giá tác động môi trường; (iv) Xây dựng năng lực và chuyển giao công nghệ và (v) Vấn đề chung như cơ chế ra quyết định của Hội nghị các quốc gia thành viên, thành lập, vận hành các cơ quan, thể chế để thực hiện văn kiện, giải quyết tranh chấp, cơ chế tài chính...